Chuỗi Hỏi Đáp về Mạn Đà La

Hỏi:
À Di Đà Phật. Xin cho con hỏi là khi vào Mạn Đà La mình cầu nguyện cho những người đã khuất được vãng sanh. Con không hiểu là họ được vãng sanh có nghĩa là họ không luân hồi nữa hay là họ tái sanh ở một cõi lành nào đó?
Đáp:
Cảm ơn chị đã đặt câu hỏi. Câu trả lời là Thầy không biết, bởi vì sự thật là mình chỉ làm hết lòng thôi. Chúng ta biết công thức của nhà Phật, thì mình chỉ làm chừng đó thôi. Chúng ta làm hết lòng, đưa năng lượng do cầu nguyện đến cho vong linh đó.
Mình có thể mong rằng vong linh đó lên cực lạc. Chúng ta mong như vậy nhưng mà có chắc gì người ta lên đâu. Sự thật là mình không biết. Người lên được cực lạc đâu có báo cho bác biết đâu. Nhưng mà có những vong linh, trước khi đi thì thật sự họ có báo mộng cho mình. Đó là chuyện thiệt. Họ đi đâu thì không ai biết, nhiều khi mình tài khôn, hay là nhiều khi mình muốn cho người ta tin mình, mình nói những chuyện lên cực lạc nhưng không có chứng cớ.
Trong suốt mười mấy năm nay làm Mạn Đà La, thì năm nào Thầy cũng có người báo cáo, cũng có người kể chuyện này, người nói cái kia. Bản thân Thầy cũng có những kinh nghiệm, thấy vài chuyện, điều đó là có thật.
Có một năm thì bác Thành đến nói với Thầy là bác với vợ bác đều có một mộng giống giống nhau. Tương tợ chứ không giống hoàn toàn. Vợ bác thì thấy là một nhóm người ở nguyên cả một vùng đất, tới xin viết bài vị cho họ. Bác Thành bác hỏi vợ ‘vậy nhóm người đó, cái vùng đất đó là chỗ nào vậy, em có biết không? biết chỗ nào không?’ Thì bà đâu có biết, nhưng bà nói ‘dường như là ở quê của em có cái chỗ như vậy’. Các vị trong mộng nói rõ xin cầu nguyện cho họ trong Mạn Đà la, không phải họ tới để xin hồi hướng.
Hôm sau thì họ tới xin Thầy viết các bài vị. Thầy nói là cứ viết bài vị cho những người tới thác mộng cho mình biết, rồi cầu nguyện cho họ, tuy hai bác không biết là chỗ đó ở nơi nào nữa. Họ làm theo, viết bài vị và cầu nguyện. Khi vào Mạn đà la hôm đó, họ cầm bài vị cho những chung sinh mà đã xuất hiện trong mộng.
Mạn Đà La xong thì tối hôm đó bà nằm mộng thấy bà trở lại cái miếng đất đó nhưng mà tất cả các chung sinh không có đó nữa mà nhìn lên trên trời thấy cả một bầu trời sáng phía trên. Bác Thành thì nằm mơ thấy khác. Bác cũng thấy một miếng đất tuy không chắc có phải giống miếng đất vợ bác thấy không, nhưng chỉ thấy hào quang từ dưới xẹt lên. Họ có báo cáo cho Thầy biết như vậy.
Có một lần khác thì mình cũng làm Mạn Đà La tại Mỹ, nhưng mình có gửi thơ qua bên Đài Loan nói là các bác nào mà muốn cầu nguyện thì đăng ký ghi danh, viết bài vị, gửi qua bên Mỹ, mình sẽ viết tên đó và đăng lên trên màn hình.
Một anh thiện nguyện viên bên Đài Loan nhận viết các tên cho các vị bên đó. Mỗi ngày anh viết cả trăm cái tên xuống rồi xong đánh máy để gửi qua bên này. Tối đó anh nằm mộng, thấy có người nói cái tên của tôi, cái chữ đó viết như thế đó không phải chữ này. Trong mộng thì anh thấy cái chữ đó viết như thế nào và hôm sau anh có sửa lại cho đúng. Anh điện thoại nói chuyện với Thầy riêng. Anh nói: Thầy ơi, con không có bịa đặt đâu bởi vì con nằm mộng, con thấy rõ là cái chữ đó như thế và con điện thoại tới người thân nhân, con hỏi là hôm qua trong điện thoại đọc cho tôi cái chữ đó nhưng mà tôi thấy cái này là dị nghĩa đồng âm thì cái chữ đó có phải là chữ viết như thế này không?
Thì cái người kia nói đúng là chữ này này, anh này mới xin lỗi ‘hôm qua tôi đâu có biết là chữ này nên tôi viết chữ kia’. Tiếng Trung Hoa có nhiều chữ viết khác nhau, nghĩa khác nhau nhưng phát âm thì giống nhau. Những người âm thì muốn mình viết tên tuổi của họ cho đúng. Anh chàng thiện nguyện viên đó nói: “Con nói cho thầy biết vậy thôi, là cái Mạn đà la nó linh hiển vô cùng”.
Năm sau, anh người Đài Loan đó sang Mỹ tham dự Mạn Đà La vì anh thấy linh nghiệm quá.
Rồi khi Thầy qua Đài Loan làm Mạn đà la bên đó, thì lại có chuyện lạ.
Có một ông tên là Paul Chang, ông là đệ tử của Hoà Thượng Tuyên Hoá, không phải là đệ tử của Thầy. Ông ở Đài bắc mà hội của mình thì ở Cao hùng. Ông không hề biết là sẽ có Mạn đà la. Thế mà một hôm, vợ ông ngủ dậy nói với ông: tối hôm qua thì Hộ Pháp nói với em rằng là Thầy Hằng Trường sắp làm Mạn đà la mà thiếu tiền! Vợ ông nói với ông về Thầy Hằng Trường: ‘Mình không có liên lạc với ông này nhưng mà bây giờ ông cần tiền đó kìa’.
‘Mà làm sao mà em biết là ông cần tiền?’
Thì trong mộng thần Hộ Pháp nói. Nói là Ông Thầy Hằng Trường cần tiền, giúp ông đi.’
Ông Paul Chang nói: ‘làm gì có cái chuyện đó, tôi có nghe ai nói tới cái chuyện làm Mạn đà la, cái chữ đó nghe nó là lạ, dường như là cái chữ đó là nó có cái gì đó sai sai đấy.’
Bà vợ nói: ‘Thì anh điện thoại nghiên cứu coi phải đúng không? Tôi mộng tôi thấy vậy, tôi nói vậy đấy.’
Ông mới bốc điện thoại lên, liên lạc với người này, người kia thì ông ấy giựt mình đúng là có làm Mạn đà la ở bên Taiwan. Ông giựt mình, ông kinh hãi nói cho vợ ông rồi hỏi vợ ‘vậy bây giờ mình cho bao nhiêu đây?’. Ông tính chắc cho 200, 300 là cũng vừa đủ xài rồi, 200, 300 đô Mỹ.
Vợ ông nói: ‘Ngài Hộ Pháp kêu mình đi giúp Thầy Hằng Trường, mà anh nghĩ là anh giúp 200, 300 đô thì giúp được cái việc gì?’ Ông này ông thấy nóng mặt luôn. Vợ mình phê bình như vậy, là mình phải cho nhiều. Ông cho liền 10,000 đô. Ông ấy đem 10.000 đô đó cúng dường cho hội ở Cao Hùng làm Pháp hội. Tiếp theo đó vợ ông nói ‘ông ấy hà tiện quá, đây thêm 10.000 nữa đây’. Họ biết rằng Mạn đà la linh thiên lắm, cho nên là hai người họ ủng hộ tối đa tuy rằng họ cũng không phải giàu có, chỉ bình thường thôi.
Thầy nói như vậy không phải là Thầy muốn các bác cúng dường Mạn đà la đâu. Nhưng Thầy muốn nói tới sự linh nghiệm của Mạn đà la tới cỡ nào, không những con quỷ tới mà Hộ pháp cũng muốn mình giúp nữa.
Mandala năm đó ở Đài Loan có chuyện cũng huyền bí lắm.
Nơi chúng ta tổ chức Mạn Đà La có hai điện. Một điện dùng làm Mạn đà la. Còn điện bên đối diện làm nơi giảng pháp. Giữa hai điện là một khoảng sân, phải qua cửa mới vào mỗi điện. Khi bắt đầu Mạn đà la mình đóng tất cả cửa, cả hai điện để giữ trang nghiêm. Người tham dự để đồ vật quý báo vào trong cái hội trường giảng pháp mà không đem vào Mạn Đà La, vì thế cửa đó phải khoá lại sau khi mọi người vào rời giảng đường vào Mạn Đà La.
Khi đó có một hiện tượng huyền bí xảy ra mà không làm sao giải thích được. Lúc mọi người sắp đi vào trong Mạn đà la thì đột nhiên xuất hiện một cô gái. Cô rất là quái dị bởi vì cô không ăn mặc như mọi người mà mặc áo quần như ở hành tinh nào xuống chứ không phải là người dân Đài Loan. Cô không có lùn, cô cao lắm. Cô vào giảng đường xin một xấp bài vị, rất là nhiều, cỡ mấy trăm cái. Cô ngồi xuống viết tên người vào các bài vị. Lúc đó gõ chuông, toàn bộ người ta sắp hàng đi qua bên Mạn Đà La và cô tiếp tục ngồi viết. Người phụ trách đóng cửa kêu cô đi ra. Cô không chịu ra, còn nói tôi chưa viết xong, để viết cho hết. Thế là ông đứng ở ngoài, ông chờ 5 phút, rồi 10 phút thì cửa bên Mạn đà la sắp sửa đóng. Ông liền chạy vô để kêu cô này vì đó là cửa duy nhất còn mở. Mấy cửa kia đã đóng hết rồi,chỉ còn một cửa duy nhất ông cần phải đóng trước khi qua Mạn Đà La. Ông mở cửa vô, nhưng cô đã biến mất cũng không thấp xấp bài vị!
Cô ấy đi đâu vậy? Không thấy cô đâu hết, tìm không ra. Ông này đi một vòng tìm rồi khóa cửa lại. Ông đi ra và báo cáo với ông Ngô Đông Long là cánh tay trái của Thầy bên kia. Ông nói: ‘có cái bà hồi nãy ngồi đây đem xấp bài vị mà bà đi đâu mất tôi tìm không ra’. Ông Ngô Đông Long tìm trong security camera nhưng lại không có camera phía bên giảng đường.
Nhưng trong Mạn Đà La, các vị usher là những người dâng các bài vị lên vòng giải thoát ở giữa, thì nói không biết tại sao trong một cái khay tự nhiên có rất nhiều bài vị nằm sẵn đó rồi. Mấy trăm cái, không ai biết ở đâu ra.
Thầy hỏi hết mấy vị ushers mà không người nào biết. Có một cô nói, con là người cầm cái dĩa này, khi con đến lấy diã thì thấy bài vị có sẵn rồi, con không biết nên con cầm lên đi thâu bài vị tiếp.
Câu hỏi đặt ra là, ai viết các bài vị đó, ai bỏ cái bài vị vào trong cái dĩa để mà đem lên trên Phật?
Mạn đà la có cái hình dạng như hình bên dưới, có 5 hình vuông, và một vòng tròn ở giữa. Đó là vòng giải thoát và cũng là chân tâm. Mạn Đà La có 4 cửa ngỏ để đi vào. Chúng ta có người đem các bài vị vào trong vòng giải thoát bỏ trong đó. Khi mà các bài vị vào trong vòng giải thoát mà chúng ta vừa trì chú, vừa tụng niệm, vừa chuyên chú thì các vong linh nhận thấy rằng họ được đưa vào trong nơi của Đức Phật, vào trong quang minh của Đức Phật.

Triết lý đó chỉ có trong Kinh Hoa Nghiêm, được gọi là Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới Tức là hiện tượng xảy ra ở tại đây thì song hành với hiện tượng xảy ra trên cõi Phật. Hai sự việc đó không có chướng ngại nhau, vì thế gọi là Sự Sự Vô Ngại.
Cái Sự đầu tiên là nơi cõi Phật. Còn cái Sự thứ nhì là trong cõi người, trong cõi Phàm này. Vô ngại là không có ngăn trở. Cho nên mình cầm cái bài vị, đó là sự của phàm phu. Đem cái bài vị này vào trong chỗ mà Đức Phật đang ngồi đó thì Đức Phật đó không phải là cái tượng Phật mà là cái cảnh giới của Phật. Bởi vì hai chuyện đó nó vô ngại cho nên khi mình đem bài vị này vào trong Mạn đà la thì tức là mình hướng dẫn vong linh đi vào trong cõi Phật. Vô cùng huyền diệu!
Thầy tìm hiểu và chính Thầy lấy các bài vị có lẽ do vị phụ nữ viết ra. Các bài vị viết chữ rất đàng hoàng, không ẩu tả. Các bác có thể nhớ tên 40 hay 60 người thân hay bạn bè không? Xấp bài vị đó có lẽ hơn 200 cái!
Mỗi lần mình làm Mandala, các bác có biết bao nhiêu bài vị không? Ở bên OC, mỗi lần làm là 30,000 bài vị. Có những người liệt kê nhiều tên trong một cái bài vị, như vậy là không được. Phải viết mỗi người một cái bài vị. Một cái bài vị là một cái thân của người âm/vong linh. Các bác đừng nghĩ cái này là chuyện giỡn nha. Bởi vì vong linh họ coi cái bài vị đó là một thực thể. Còn mình thì mình thấy cái bài vị là một tờ giấy thôi. Mình không thấy điều gì khác. Cho nên bài vị rất là quan trọng. Nó không phải là một sáng tác của đời này, mà đã được sáng tác từ 100 năm về trước rồi.
Các bác có để ý là mình không lấy tiền bài vị. Bởi vì nếu mà mình lấy tiền thì một vong linh, mình cũng không cứu được nữa chứ đừng nói là mấy ngàn vong linh. Điều gì mà có tiền bạc, buôn bán, trao đổi thì không thể nào mà cứu rỗi ai được hết.
Cho nên chúng ta làm mấy cái bài vị này là để biên tên vong linh, phải nhờ các bác biên tên của người thân thương của mình thì mới linh nghiệm được. Rồi các bác phải đi vào trong cái Mạn đà la đích thân cầu nguyên, với lòng thương của các bác thì mới linh nghiệm được. Cho nên khi mà mình viết bài vị rồi là vong linh đó sẽ được mời thỉnh vào trong Mạn đà la. Và vì vậy, cho nên mình mới hiểu được cái vị phụ nữ quái dị đó. Mình không biết vị đó là ai. Có thể là Quan Âm Bồ Tát. Có thể là một người nào đó, nhưng mà phải có một trí nhớ ghê lắm mới viết được 200 cái bài vị.
Cho nên bài vị rất là quan trọng và ích lợi cho người vong. Nhưng đối với mình, thì mình càng tu thì mình càng có khả năng chuyển hóa. Bây giờ đây mới nói nợ máu thôi, còn có nợ tiền, và nhất là nợ tình nữa. Trời ơi, cái nợ tình nó dang díu, không biết chừng nào mới hết nổi.
Chị hỏi có một câu nhưng mà Thầy trả lời 18 chuyện lận. Mấy chuyện này là chuyện thiệt, người thiệt, việc thiệt chứ không bịa đặt đâu các bác.
Các bác có ai có câu hỏi gì thì các bác cứ đặt ra đi. Các bác hỏi thì thầy sẽ tìm cách trả lời.
Comments